Những lời pháp, lời dạy của cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ nói ra lúc sinh thời được các đệ tử, học trò ghi chép lại

Ngày đăng: Thứ 4 , 20/08/2025 23:25 .
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - Đệ tam Pháp chủ GHPGVN là một bậc pháp khí thiền gia, bậc chân tu thực học, luôn lấy việc vượt sinh tử làm trọng, việc độ sinh làm cốt yếu; lấy giới luật làm đầu, trí tuệ làm sự nghiệp; Bên ngoài Ngài thể hiện khí chất khoáng đạt, từ hòa, bao dung; bên trong lại tinh nghiêm giới luật, tinh cần, thanh bần, thủ đạo,  thiểu dục tri túc, một lòng hướng Phật, chẳng màng danh lợi, phú quý; Đối với tự thân thì khắc kỷ, đối với người thì rộng lượng bao dung, chan hòa nhã nhặn, từ bi tiếp vật, mẫn niệm độ sinh; luôn mật hạnh, làm nhiều hơn nói, khiêm cung nhẫn nại, không tự cao tự đại; nuôi thân bằng nghề cày cấy, nuôi huệ mạng bằng “giới – định – tuệ”, “văn – tư tu”. Dù người đời thường hình dung hình ảnh Đức Đệ tam Pháp chủ với hình ảnh “Thiền sư nông Tăng”, nhưng Ngài chính là bậc Long tượng trong chốn tùng lâm, bậc Thặch trụ trong ngôi nhà Phật pháp, bậc Đống lương giữa chốn Tăng già, bậc mô phạm duy trì mạnh mạch Phật pháp. Dưới đây là những lời pháp, lời dạy của cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ nói ra lúc sinh thời được các đệ tử, học trò ghi chép lại. 
 
  • Tu là gì? Là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người.
  • Phúc thì phải do tu mà có. Phúc thì nên tích chứ không nên tán. Phúc không tích mà cứ lạm hưởng thì dần rồi cũng hết, khi đó phúc trở thành họa.
  • Tu, hiểu đơn giản là "sửa", sửa những gì chưa tốt, chưa đẹp để làm cho chính mình, cho gia đình mình, cho xã hội mình tốt đẹp hơn lên. Bản thân mình có suy nghĩ, lời nói, việc làm nào chưa hay, chưa tốt, chưa đẹp thì "sửa" bằng cách cố gắng nghĩ cho kỹ, nói cho hay, làm cho tốt.
  • Giáo hội cần phải lấy tinh thần yết và mà đời sống giới luật Tăng làm nền tảng cốt lõi phát triển; sử dụng hình thức hành chính Giáo hội để bổ trợ, hoàn thiện, đảm bảo tính tổ chức đồng bộ đồng nhất Phật giáo. Nếu duy trì hai điều này, thì Phật giáo phát triển cả về mặt bản chất và hình thức. Nếu nghiêng về hình thức hành chính Giáo hội thì Phật giáo có xu hướng đi xuống.
  • người xuất gia nếu không dụng công tu tập thì chỉ là người tại gia ở chùa”.
  • Hội đồng chứng minh phải là Hội đồng lãnh đạo định hướng về mặt Giáo pháp, còn Hội đồng Trị sự lãnh đạo về mặt hành chính. Cả hai Hội đồng này cần phải hoạt động đồng bộ, thực chất, thực quyền, trách nhiệm… khi đó đảm bảo lãnh đạo Giáo hội đẩm bảo định hướng Phật giáo cả về mặt giáo pháp và hành chính. Có như vậy Phật giáo Việt Nam mới phát triển bền vững. Việc này cũng cần nghiên cứu áp dụng ở tất cả các cấp Giáo hội, chứ không riêng gì Giáo hội Trung ương.
  • Trong việc sắp xếp nhân sự Giáo hội: cá nhân cử Phật giáo suy vi, Chư tăng thanh tịnh cử thì Phật giáo phát triển bền vững.
  • Trong việc phát triển Giáo hội: Cá nhân có thẩm quyền hơn Chư Tăng – Phật giáo đi xuống, Chư tăng có thẩm quyền hơn cá nhân – Phật giáo phát triển.
  • Phát triển Giáo hội trong việc trẻ hóa nhân sự là sự cần thiết, nhưng cũng cần đặc biệt trú trọng đến bậc cao tăng thạc đức của các cấp Giáo hội. Giáo hội cần phải nhận thức rõ được các bậc tu hành đạo đức niên cao lạp trưởng chính là giường cột, là cốt lõi đảm bảo sự phát triển bền vững của Phật giáo. Tri thức và năng lực, sức trẻ là cần thiết của sự phát triển, nhưng gốc của phát triển Phật giáo vẫn là đạo hạnh người tu. Điều này, các cấp lãnh đạo giáo hội cần phải đặc biệt chú ý.
  • Trong tuệ giác bình đẳng, đâu có hình tướng: Ta và người; sống và chết. Niết bàn chỉ là hoa đốm trong hư không. Thế thời ở nghĩa đúng thứ nhất tìm đâu ra cái sinh tử mà có việc sống chết phải đợi cầu giải quyết.
  • Pháp sư, trước hết là người thực hành giáo pháp, tu tập giáo pháp, có thực tu, thực học, thực chứng. Có cái này rồi, mới tuyên dương giáo pháp của Phật, mới giúp đỡ, chia sẻ, hướng dẫn người khác tu tập. Mình không tu, lấy gì hướng dẫn người khác tu. Mình có tu, đôi khi chẳng cần nói câu nào, cũng khiến người khác thay đổi theo hướng tích cực.
  • Giáo pháp của Phật lấy cốt lõi là duyên khởi, vô thường, vô ngã, nhân quả; lấy giá trị con người làm trung tâm. Vì thế, Đạo Phật là đạo của minh triết nhân sinh.
  • Người xuất luôn phải lấy trí nguyện thành Phật làm đầu, đoạn diệt sinh tử làm trọng, phổ độ quần sinh làm lý tưởng.
  • Giáo dục Phật giáo là con đường giáo dục làm người, làm Phật
  • Giáo dục Phật giáo là gốc của sự phát triển Phật giáo. Sở dĩ, Phật pháp được duy trì đến ngày nay cũng đều nhờ con đường giáo dục, hoằng pháp. Trong các đối tượng giáo dục Phật giáo, thì quá trình giáo dục người xuất gia, chính là nhân tố quyết định đến sự tồn vong của Phật giáo. Trong quá trình giáo dục người xuất gia, giai đoạn giáo dục tự viện, giáo dục uy nghi phép tắc, môi trường Phật giáo tự viện là giai đoạn quan trọng bậc nhất trong việc hình thành nhân cách người xuất gia. Giáo dục Phật giáo là con đường hình thành nhân cách làm người, làm Phật. Vì vậy, việc giáo dục Phật giáo phải đặt mục tiêu đạo hạnh người xuất gia là mục tiêu quan trọng bậc nhất, rồi mới đến mục tiêu về tri thức và năng lực con người.
  • Trong giáo dục Phật giáo, quan trọng nhất là thân giáo.
  • Con người khác loài vật ở chỗ có đạo đức và tri thức. Cuộc sống con người không có đạo đức, thì cuộc sống trở nên vô nghĩa.
  • Đạo đức, văn hóa là giá trị cốt lõi phát triển đất nước.
  • Giới luật Phật giáo không chỉ là công cụ giúp ta kiềm chế, kiểm soát bản thân, mà giới luật Phật giáo giúp chúng ta tự do, phát triển hơn trong cuộc sống.
  • Phật giáo luôn tôn trọng giá trị con người, quốc gia, dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng bản địa… Vì thế Phật giáo đi đến vùng lãnh thổ nào, không đối kháng mà dung hợp với tất cả những vấn đề trên. Dung hợp như nước hòa với sữa, để tạo ra những giá trị tốt đẹp, bản sắc cho đạo cho đời.
  • Giáo lý và tinh thần Phật giáo chính là những chân lý về vũ trụ nhân sinh được Đức Phật tìm hiểu, giác ngộ. Những chân lý này không phải Đức Phật phát minh ra, mà Đức Phật giác ngộ chúng.
  • Phật giáo có nhiều pháp môn, hệ phái, tông phái tu tập khác nhau. Nhưng khác nhau về mặt hình thức, giống nhau về mặt bản chất. Bản chất ở đây chính là giá trị làm người, giá trị làm Phật.
  • Phật và ma chỉ khác nhau ở cái thiện và ác.
  • Việc lớn của đời người, không có gì lớn hơn việc sống và chết. Vấn đề khó giải quyết nhất trên thế gian này, cũng chỉ nằm trong hai từ: sống - chết mà thôi. Bởi thế Chư Phật ra đời, Đức Phật nào cũng dem kinh nghiệm, phương pháp giải quyết vấn đề  sống - chết mà các Ngài tự chứng biết thế nào chỉ rõ ra cho hết thảy chúng sinh nương vào đó thực hành, để tự mình đoạn diệt sinh tử, tìm đến an vui.
  • Chí nguyện đã quyết, là nguyên nhân thành công sự nghiệp. Cho nên lập chí nguyện là là vấn đề tiên quyết của cuộc sống con người..
  • Thuốc  là vật liệu chữa bệnh ở thế gian. Theo Phật pháp không chỉ người mắc bệnh mới uống thuốc. Phàm chúng sinh trong thế giới, không lúc nào không ngâm mình trong bệnh: Hoặc, nghiệp, khổ. Thân tâm này luôn chứa đựng nhiều các bệnh khổ. Nếu thân bệnh, cần dùng các loại thuốc thế tục trị liệu. Còn nếu mắc bệnh về tâm, phải dùng Đạo pháp để giải trừ.
  • Các Phật tử tuy thường niệm danh hiệu Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Dược Sư, nhưng luôn coi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đấng Bản sư - Như như bất động, tuy không làm nhưng không việc gì không làm. Tất cả các pháp đều nương tựa vào đó; tất cả các việc đều hướng vào đây. Nhờ vậy thông suốt sinh tử vốn không, đạt được giải thoát rốt giáo.
  • Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho đời, cho đạo.
  • Bốn mùa, các Tăng trong chùa Giáng đều tự trồng lấy rau ăn mà không phải mua ở bên ngoài. Rau trồng ở đây không bón phân vô cơ, không phun thuốc trừ sâu nên đảm bảo luôn sạch, không có chất độc hại. Hàng ngày phải dưỡng sinh, tập thể dục, luôn vận động thân thể, sinh hoạt điều độ thì có thể hỗ trợ để tăng cường sức khỏe cơ thể
  • Vui với đạo pháp mà quên hết phiền não, xóa bỏ đau khổ cho mình và người khác. Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy.
  •           Phật vì chúng sinh mà đặt ra Kinh, Luật, đều để đối trị bệnh thân, bệnh tâm. Chúng sinh bị đọa vào vô minh, mê hoặc, thân nghiệp báo đầy các loại bệnh khổ. Phật thuyết ra các kinh như một phương thuốc chữa bệnh. Các hàng Bồ tát, Thanh Văn kết tập Kinh, Luật, tạo ra Luận cũng nhằm làm rõ nghĩa nhiều lớp chân lý, pháp môn vô biên, kể ra không xiết, dùng cũng không hết, đầy trong vũ trụ, cho đến động, thực, khoáng vật đều là nguyên liệu làm thuốc.
  •  Sau khi tôi theo hầu Phật Tổ thì không được tổ chức tang lễ linh đình, nghi lễ hết sức giản đơn, ngắn ngày theo truyền thống đạo Phật và tổ chức tại chùa Viên Minh.
  • Học như chèo thuyền ngược nước, không tiến là lui
  • Tôi xuất gia từ lúc 5 tuổi, được người cô ruột là Ni trưởng Thích nữ Đàm Cơ đưa về chùa Quán ở Ninh Bình. Năm tôi 17 tuổi, được gửi đến tu học tại chùa Viên Minh (chùa Giáng) làm đệ tử Hòa thượng Thích Quảng Tốn. Thuở ấy toàn vùng này là nơi xa xôi vắng vẻ, lau sậy mọc um tùm, thú dữ rắn rết rất nhiều.Tuy ở nơi hẻo lánh, nhưng chùa Viên Minh là tổ đình của sơn môn Đa Bảo, là một trong 3 sơn môn lớn nhất miền Bắc. Tại đây, năm Nhâm Dần 1902, Tổ Thích Nguyên Uẩn mở đạo tràng Viên Minh pháp hội, quy tụ được hơn 100 Tăng Ni giảng dạy và tu học trong 12 năm. Sau đó, Tổ Nguyên Uẩn về cõi Niết-bàn, thì Tổ Quảng Tốn nối chí.Cả đời tôi luôn kính ngưỡng các vị sư tổ chùa Giáng. Các ngài cả đời tận lực vì đạo, cả đời gắng công truyền bá Phật pháp: giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, khắc ván in kinh, lập “Viên Minh pháp hội”, không cầu danh lợi. Tôi được như ngày nay cũng là nhờ nhẫn nại noi tấm gương chư Tổ. Từ khi được học giáo pháp của chư Tổ, tôi luôn ghi lòng tạc dạ “giấy rách phải giữ lấy lề”, kiên trì giữ nền nếp của tổ đình, của Viên Minh pháp hội. Gần như cả cuộc đời tu hành của tôi là kinh qua các cuộc chiến tranh, pháp nạn. Những năm kháng chiến chống Pháp, toàn bộ sơn môn bị giặc Pháp đốt hết. Cứ dăm bữa, nửa tháng chúng lại đến càn quét, đốt phá. Làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ. Nhưng tôi xác định, nếu không bám trụ, kiên trì ở lại, không duy trì thì tan nát hết. Cho dù biết rằng ở lại có thể chết, mà ra đi như một vài huynh đệ của tôi, thì cũng không thể quay về. Mỗi lần chạy loạn đi đâu thì tôi cũng luôn mang theo bên mình những tài sản tinh thần, lịch sử của chư Tổ. Thà chết thì tôi cũng giữ, vì vẫn tin rằng rồi sẽ có cơ phục hồi. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, mình tôi trở về nhìn cảnh tan nát mà lòng xót xa, nhưng phải xây dựng lại để nối dòng sơn môn Đa Bảo. Những năm đầu, người ta tổ chức cho dân đi các khu kinh tế mới. Dân ở lại cũng toàn người nghèo, ai cũng phải bươn chải để kiếm sống, làm gì có tiền hay lương thực đem đến cúng chùa. Chúng tôi tự cày cấy làm ăn, đồng thời tham gia các công việc xã hội, việc làng nước. Tôi trực tiếp tham gia giảng dạy các lớp bình dân học vụ, rồi hộ đê, cứu đê, chống lũ lụt. Việc gì tốt thì làm.Năm 1969 vỡ đê vùng này, nước ngập chùa, kinh sách ướt hết. Canh cánh nỗi lo mất mát, hư hỏng tài liệu, kinh sách của chư Tổ, nhất là những thư tịch độc bản, tôi chạy đua với thời gian, tìm mọi cách để giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Ngay cả khi tôi đã tám mươi tuổi vẫn còn ra đồng làm lụng tự nuôi thân để ngày đêm miệt mài nghiên cứu kinh Phật theo nếp của Tổ xưa. Trải qua nhiều thăng trầm thế sự, tôi cùng các đệ tử phải bền bỉ xây dựng dần lại chùa qua hàng chục năm mới được như ngày nay. Nhờ chư Phật, chư Tổ gia hộ, nhờ Thầy tin tưởng ủy thác, nhờ ký tính huân tập từ nhiều đời mà tôi tạm hoàn thành công nghiệp dịch các bộ kinh Phật. Ân đức của chư Phật, chư Tổ làm sao báo đền cho hết.
  • Tâm thiện là cái tâm thực thà, tốt lành, chỉ một niềm xây dựng cho mình, xây dựng cho đời được tốt đẹp. Ác tâm, vọng tâm là cái tâm kèn cựa, tranh đoạt, ức hiếp, cậy mạnh hiếp yếu, cậy khôn hiếp dại, là cái tâm điên đảo, mê hoặc, cậy mình cậy thế mà dễ tạo nên oán hận, là nguyên nhân của cảnh khổ... Tâm thiện, thì nên giữ và nên làm cho càng ngày càng sáng lên. Còn ác tâm, vọng tâm thì phải trừ diệt, đoạn tuyệt ngay từ lúc nó mới khởi lên trong lòng mỗi chúng ta
  • “Đạo không cấy lúa để có gạo ăn, không trồng dâu nuôi tằm, dệt vải để có áo mặc, không làm ra vật dụng để sử dụng hàng ngày. Những gì người tu đạo dùng hàng ngày do Đời cung cấp, vậy là Đời nuôi Đạo. Để trả lại cho Đời, Đạo chắt lọc những gì tinh túy nhất của đạo đức, trí tuệ để giúp cho Đời tốt đẹp. Như vậy Đạo với Đời tưởng hai nhưng là một, trong một thực thể xã hội cần được xây dựng hài hòa vật chất và tinh thần thì Đạo và Đời cùng tốt đẹp. Nhớ điều đó người tu đạo phải luôn cố gắng tu dưỡng, tích đức luyện trí để xứng đáng với những gì Đời đã nuôi Đạo."
  • Sư là khuôn mẫu, mô phạm, chí ít là trong một cộng đồng người. Nếu không có đạo hạnh, không có trí tuệ thì lấy gì mà dạy người? Lấy gì làm gương tốt để mọi người noi theo
  • Nhà chùa tết nhất nghĩ mà vui
Lộc phật ban cho đủ mọi mùi.
Giò thủ Lăng Nghiêm, Viên Giác bánh
Chè Ba La Mật, Pháp Hoa xôi
Kìa mâm Bảo Tích bày trăm vị
Nọ đũa Kim Cương sắp bốn đôi
Chiếu giải Luật nghi nhà Trượng thất
Bạn cao Tăng đạo thỉnh lên ngồi.
  • Phật giáo theo hệ phái Nam tông (còn gọi là Tiểu thừa) không ăn chay, nhưng hệ phái Bắc tông (Đại thừa) thì thường ăn chay. Xưa kia Đức Phật và chư Tăng đi khất thực, ai cho gì thì các Ngài và chư Tăng dùng cái đó, không đòi hỏi, phân biệt chay mặn
  • Trong Phật giáo Ðại thừa, đối với những người thụ Bồ-tát giới phải chịu 48 điều kiêng cấm, trong đó có nội dung cấm ăn thịt chúng sinh. Thế nhưng thụ Bồ-tát giới theo truyền thống Tây Tạng, không có giới nào cấm ăn thịt cả. Nói vậy để thấy rằng, vấn đề ăn chay hay không là tùy thuộc ở từng hệ phái, từng sơn môn, chứ nói đến chuyện có bắt buộc ăn chay hay không thì Đức Phật không bắt. Riêng sơn môn chùa Giáng (Viên Minh), tất thảy mọi người đều phải ăn chay trường. Nhà chùa chúng tôi ăn chay là vì quan niệm thịt các loài vật với thịt mình thì cũng là thịt thôi.
  • Bản chất của việc ăn chay chính là nuôi dưỡng lòng từ bi.
  • “Tôi ngẫm thấy, 'Tre già thì măng mọc', nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời.
  • Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng.
  • Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”.
  • Tôi trụ thế đến nay 99 năm, ở chùa 94 năm, thụ Đại giới được 78 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi.
  •  Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy.
  • Trước đây chưa có Giáo hội, chỉ có các sơn môn, tổ đình, ai theo hệ phái nào thì cứ theo đó mà tu. Từng sơn môn học theo giáo lý của Đức Phật rồi lại truyền dạy cho mọi người theo Kinh, theo Luật, theo Luận. Luật thì nghiêm, luận thì sáng suốt, kinh thì thẳng thắn để đưa người tiến hóa. Từ nhiều năm nay tất cả các sơn môn, các hệ phái Phật giáo nước nhà đã được thống nhất trong một tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Giáo hội đã đoàn kết được Tăng Ni cả nước để cùng thực hiện các Phật sự lớn không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở cả tầm quốc tế. Tuy vậy, việc duy trì luật lệ trong từng sơn môn có phần lơi lỏng, đó là nguyên nhân khiến một bộ phận Tăng Ni không được kiềm thúc vào khuôn khổ, xa rời giới luật.
  • Tâm hồn được nuôi dưỡng bằng giáo dục, truyền thống văn hoá, tôn giáo,… dù được nuôi dưỡng bằng gì thì tâm hồn cũng biểu hiện qua đạo đức, tri thức, tâm linh,… Người tu hành theo Phật giáo đang thực hiện nuôi dưỡng, phát triển tâm hồn qua tôn giáo mình theo, đồng thời bù đắp cho tâm hồn trong sáng và tốt đẹp bị lệch lạc khi đối diện với tệ nạn của đời sống thế tục. Khi đã tu theo Phật giáo dù kinh điển có thuộc nhưng hàng ngày vẫn đều đặn đọc tụng là để luôn nhắc nhở phải vững vàng trong niềm tin, kiên cố trong tu hành, luôn mở rộng tầm hiểu biết. Chỉ một lời kinh nhưng mỗi ngày đọc sẽ cho một giá trị hiểu biết khác nhau. Càng tu tập tinh tấn, càng va đập với xã hội ô trược, càng thấy lời kinh Phật dạy là thâm sâu vi diệu không chỉ đủ bù đắp cho những hao hụt trong cuộc sống hàng ngày mà còn giúp để mở mang tri thức, rèn giũa đạo đức và củng cố phát triển niềm tin tâm linh
  • “thân giáo có sức cảm hóa, thuyết phục cao hơn vạn ngàn pho kinh trên giá sách”.
  • "Chúng ta xuất gia không phải để cầu an thân, mà xuất gia để làm những điều Phật dạy, làm những điều ích nước lợi dân, cứu khổ độ mê. Cho nên học phải nhớ thực hành".
  • "An bần" thì mới "Thủ đạo". Có "An bần thủ đạo" thì mới "Duy tuệ thị nghiệp". Nếu chưa "An bần thủ đạo" thì làm sao "Duy tuệ thị nghiệp"
  •  
  • Lấy Phật pháp làm gương sáng, soi vào tâm mình; Lấy tâm mình làm đèn trí, rọi chỗ khó hiểu trong kinh
  • “Đạo Phật là đạo của trí tuệ, trí tuệ  ở tầm cao, có hệ thống và thực chứng, tuyệt nhiên không phải là lý thuyết xuông.
  • Dù cho đã đi gần hết cuộc đời khi thịnh, lúc suy, chúng tôi vẫn vượt qua ghềnh thác bằng sức kham nhẫn của chính mình. Theo lời Phật dạy: “Người xuất gia chèo thuyền ngược dòng đế thuận bến Niết Bàn”. Lấy khó khăn làm đà tiến thủ, mượn nghịch cảnh làm sự tác thành, để không cô phụ ý chí xuất trần.
  • Giảng sư cần hiểu sâu, bằng sự chiêm nghiệm của chính bản thân, về Phật Pháp; phải tích cực, nhiệt thành, tu tập gương mẫu để có thể “dĩ thân vi giáo”; coi việc giúp đỡ hậu lai chính là nuôi dưỡng hậu thân của mình; cần tâm niệm “học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Các nhà giáo dục cũng phải không ngừng được giáo dục.
  • Nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng ni, nhất là mô hình các Tổ đình truyền thống. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hoà” của Tăng, Ni chúng. Đó là lúc máu chảy về tim, để thanh lọc thân tâm. “Tăng ly chúng thì Tăng tàn”. Tăng là tập thể lục hoà chứ tuyệt đối không bao giờ là các cá nhân tu sĩ riêng lẻ. Tư tưởng về “Chúng” cần luôn luôn thường trực trong tâm của người xuất gia. Tuyệt đối chống lại tư tưởng coi đi Hạ chỉ là hình thức đánh trống ghi tên để đóng dấu thêm tuổi hạ. Đó là hành động tự huyễn hoặc bản thân mình và lừa lọc Tăng chúng, có tội với chư Phật, chư Tổ, sớm muộn cũng phá hoại Chính Pháp..
  • Thanh niên Phật tử, đã tin Phật pháp thì nên gắng thực hành trong mọi mặt đời sống của mình, từng bước một, được phần nào cho tốt phần ấy. Thực hành theo đúng lòng tin chính tín, tránh sa vào mê tín dị đoan. Kết hợp cho tốt giữa Đạo và đời. Phật tử phải là người gương mẫu trong gia đình, ở nơi làm việc, ngoài xã hội.
  • “Trong Phật giáo có hai dạng Bồ Tát, thuận hạnh và nghịch hạnh. Thuận hạnh thì dễ biết dễ nói. Nghịch hạnh thì bất khả tư nghì, không thể nói được…
  • Thấy điều hay thì phải học để cố mà theo, thấy điều dở thì phải nghĩ để cố mà tránh. Phật tổ có di giáo cho các chúng đệ tử tam tạng Thánh giáo giới – định – tuệ làm căn bản co người tu hành.
  • Tôi là người cao tuổi, xuất gia lâu năm nên được các chư tăng ủy thác vào ngôi Pháp chủ. Chứ Ngôi vị Pháp chủ theo nghĩa cứu cánh tuyệt đối thì chỉ có một vị có đầy đủ phúc đức, trí tuệ để gìn giữ, đó là Đức Thích Ca Mâu Ni”,
  • Đức Phật Dược Sư, Đức Phật Di Đà đại dụng sinh khởi các pháp đều nương tựa vào Đức Thích Tôn. Tuy tiêu tai nạn - độ vong linh có khác nhau, nhưng thu dụng về thể không ngoài Đức Phật Bản Sư Thích Ca Mâu Ni.
  • Theo giáo pháp Tam thừa tu hành xuất thế sẽ vượt được qua luân hồi sáu đạo. Theo pháp môn Di Đà được sinh về Tịnh Độ. Còn nếu vì cuộc sống mong cầu chưa hết, thì cần phải nương tựa vào pháp môn Dược Sư để diệt tai, trừ nạn, thành tựu phúc thọ, cải thiện sinh hoạt gia đình xã hội; làm các việc công ích, khiến cho đời sống hiện tại được lợi ích an vui, cũng là cải biến cái lệ trước kia chỉ chú trọng tiến vong độ quỷ.
  • Thể Chân-không Pháp-thân vốn không có tên gọi là hình tướng, bây giờ ở chỗ không có dang tướng, dựng lên giả danh để bàn Thật-tướng nên gọi là Thật-tướng Bát-nhã. Bởi nguồn tâm lắng đọng trong yên lặng, không-tướng mà là tướng nên gọi là Thật-tướng. Đó là nơi Chân-tính được quán tới (sở quán chân-tính), đó là bản-giác chân-tâm thiêng liêng sáng suốt của con người. Không phải tịch, không phải chiếu, lý tính thường trụ tự-thể lìa hết những pháp sinh, diệt, nhiễm, tịnh, hư, vọng v.v
  • Tâm, có “thể’ có “dụng”, thật tướng là “thể”, quán chiếu là “dụng”, đem dụng về thể gọi là đáo bỉ ngạn, cho nên Luận Khởi Tín dạy: “Tự-tâm khởi tín, lại tín tự-tâm thể, khởi tín là dụng, lại tín tự-tâm là đem dụng về thể”.
  • Hoa Nghiêm Biệt Hành Sao dạy: Trí là dụng của , thể của  thành ra trí lại soi về trí với lý hợp, mới gọi là chân-tríchân-trí là thật-tướng-Bát-nhã; lý là lý chân-không, cho nên kinh này không có trí ngoài như mà chứng được như, không có như ngoài trí, làm chỗ cho trí vào tức là đem dụng về thể. Huống chi tính tướng không tông đều khác, không cho phép nhầm lẫm mà 600 quyển Bát-nhã đều là một ”vô-tướng” của Không-tông. Vậy Bát-nhã là thể của Chân-khôngKinh Niết-bàn dạy: Tính Phật là nghĩa không thứ nhất, là trí tuệ cho nên gọi trí tuệ là đủ rôi, không phải nói riêng tâm-tính, nếu nói tâm-tính tức thành pháp thật đã chớm vào thật-pháp, thì không phải là không. Hoặc gọi là tâm “tát-bà-nhã”. Thì vốn không phải là nhan đề của Kinh. Bởi vì ngoài tâm không có Bát-nhã; ngoài Bát-nhã không có tâm. Tâm không có hình tướng gọi là Bát-nhã. Thế là rất sâu xa, rất mầu nhiệm cần gì phải nói tâm nữa.
  • Văn-tự Bát-nhã là công dụng của Chư Phật dùng để lý giải, giáo hoá, mà tính văn tự vốn không, thể không của tính là Bát-nhã. Vì thế lời phán giáo của tông Thiên Thai dạy: “văn tự là sắc, sắc tức là thật tướng”
MỘT SỐ CÂU ĐỐI DO ĐỨC PHÁP CHỦ VIẾT
  • Đức nương ánh Từ, khám Báu trường tồn truyền người sau
Công nối ấn Tổ, nhà Tịnh không phai đón kẻ tới.
  • Tổ đức trang nghiêm, đời Lý xa truyền phò vận nước
Sư đường tự tại, núi Sài cao vút dựa oai nghi.
  • Đến cửa Bát nhã phải vận dụng thuận đường;
Vào cảnh Chân như đừng sinh tâm chấp mắc.
  • Đất phúc linh thiêng xây lên thời vận văn minh
Ánh tốt khí lành mở rộng môn đình giàu có.
  • Gió hòa chùa cảnh lặng vô biên/ Trăng đến cửa thiền tròn hơn nữa.
  • Nước nhiễu hoa vây mờ cảnh đẹp/ Dân khang vật thịnh tỏ linh thiêng.
  • Thấy đường mà đi, thông suốt tròn đầy đất giác
Được cửa mà vào, tạm mở sự tướng phương hay.
  • Ba tháng An cư vâng Phật dạy
 Sáu hòa cùng ở tỏ nếp Tăng
  • Chín tuần ở cùng đại chúng, lỗi lầm sám hối nguyện ghi ơn
   Ba tháng hành đạo tập chung, tri thức trau dồi xin Tạ pháp
  • Cha sinh mẹ dưỡng, phận con đành nợ trăm năm
   Phật dạy thầy răn, chữ Hiếu đứng đầu muôn nết
  • Làm lành lánh ác, trì kinh lễ sám, cầu tiêu nghiệp lụy mẹ siêu sinh
   Tìm đạo xa nhà, sớm trực khuya hầu, chữ hiếu thế gian con thiếu vắng.         
  • Long (rồng) quấn Sài Sơn, mây lành năm sắc khắp che
Đẩu (sao) soi Đa Phúc, điện báu bảy tầng cao sáng.
  • Đa Phúc trùng tu, ngày ngày núi Long nhiều cát khánh
Sài Sơn kiến tạo, năm năm non Đẩu phúc đầy nhà.
  • Da đá xương tròn tạo nên thân tự tại
Thể thẳng hình vuông chẳng đọa kiếp luân hồi.
  • Đạo Phật từ bi chúng sinh mong an lạc
Mắt tâm tin hướng thế giới tự hòa bình.

Các tin bài, hình ảnh, thư từ muốn đăng lên Website: chuathien.vn xin gửi vào địa chỉ: chuathien2014.@gmail.com
Ý kiến của bạn 0
Hãy sử dụng tiếng Việt có dấu khi viết bài và điền đầy đủ thông tin. Bình luận của bạn sẽ được phản hồi trong thời gian sớm nhất

Đăng ký học

Lĩnh vực quan tâm chính là gì?
Số lượngTỷ lệ
247( 13 %)
59( 3 %)
23( 1 %)
36( 2 %)
1511( 81 %)
Số người tham gia bình chọn: 1876
Lần bình chọn đầu tiên: Thứ 5 , 18/04/2013 17:12
Lần bình chọn sau cùng: Thứ 5 , 21/08/2025 04:07

Tin liên quan

Thông báo

LỄ PHÁT ĐỘNG CẤP QUỐC GIA CHƯƠNG TRÌNH VẬN ĐỘNG ỦNG HỘ NHÂN DÂN CUBA

Hiện nay, Cuba đang đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng kéo dài của dịch bệnh, thiên tai và chính sách bao vây, cấm vận. Người dân, đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi, rất cần sự sẻ chia từ bạn bè quốc...
Chi tiết »

Tọa đàm: Vua Phật Trần Nhân Tông - Cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp

Tọa đàm: Vua Phật Trần Nhân Tông - Cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp
Chi tiết »

GHPGVN HƯỚNG VỀ NGÀY THƯƠNG BINH - LIỆT SĨ 27/7: THỂ HIỆN ĐẠO LÝ TRI ÂN, BÁO ÂN CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Nhân dịp kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2025), Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ban hành công văn số 344/HĐTS-VP1 đề nghị các Ban, Viện Trung ương, Ban Trị sự GHPGVN các tỉnh, thành phố...
Chi tiết »

Bài viết của Phật tử

NGƯỜI THẦY CÓ “TẤM LÒNG VÀNG” GIEO HẠT GIỐNG TỪ BI, TRÍ TUỆ CHO ĐỜI

Bài viết của Phật tử Nguyễn Thị Chắt Thọ - Pháp danh : Diệu Minh về người Thầy đáng kính Đại Đức Thích Chánh Thuần Phó Thư ký Ban Hoằng pháp GHPGVN thành phố Hà Nội, trụ trì chùa Phúc Lâm -...
Chi tiết »

Đại đức Thích Chánh Thuần - đọc văn tế Nguyễn Trãi

Đại đức Thích Chánh Thuần - đọc văn tế Nguyễn Trãi
Chi tiết »

Tuyên đọc bức Thông điệp của Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 2020

Tuyên đọc bức Thông điệp của Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 2020
Chi tiết »

Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm - đầu xuân đi chùa lễ Phật như thế nào cho đúng.

Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm - đầu xuân đi chùa lễ Phật như thế nào cho đúng. 
Chi tiết »

Mời quảng cáo

Pháp âm

Tin tức mới

Những lời pháp, lời dạy của cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ nói ra lúc sinh thời được các đệ tử, học trò ghi chép lại

Phúc thì phải do tu mà có. Phúc thì nên tích chứ không nên tán. Phúc không tích mà cứ lạm hưởng thì dần rồi cũng hết, khi đó phúc trở thành họa.
Chi tiết »

Chia sẻ của các bạn tu sinh trong khóa tu hè chùa Phúc Lâm

Chia sẻ của các bạn tu sinh trong khóa tu hè chùa Phúc Lâm
Chi tiết »

Bhutan và bài học về hạnh phúc

Thành công là có nhiều tiền, nhiều mối quan hệ, nhiều cơ hội? Có lẽ ở nhiều quốc gia, câu trả lời sẽ là “đúng”. Nhưng ở Bhutan thì không. Và điều đó khiến ta phải suy ngẫm: có phải trong đời, sẽ...
Chi tiết »

Tối thắng của Tứ Vô lượng tâm

Nhưng cái gì là đặc thù, cái gì là thù thắng, cái gì là sai biệt giữa Sa-môn Gotama và các vị tu sĩ ngoại đạo, tức là về thuyết pháp hay về giáo giới?   
Chi tiết »

Đăng ký học

Lĩnh vực quan tâm chính là gì?

Thống kê truy cập

00000006

Hôm nay: 2377

Hôm qua: 7271

Tháng này: 100592

Tháng trước: 104873

Tất cả: 6167049


Đang online: 6
IP: 216.73.216.41
Mozilla 0.0