Không phải vào ngồi trong thiền đường mới là thiền mà luôn thực tập trong cuộc sống. Làm cái gì cũng nhận biết rõ việc đang làm. Đi mình nhận biết là đang đi, ngồi mình nhận biết đang ngồi, cũng như lái xe mình nhận biết là đang lái xe, cầm vô-lăng mình nhận biết rõ, cho đến bán hàng mình cũng nhận biết đang bán hàng, nhận rõ ràng; rồi trong cái buồn vui mình cũng nhận biết rõ hết.
Thực tập luôn trong cuộc sống hàng ngày, đều nhận biết tất cả rõ ràng. Tức là luôn có ánh sáng tâm trong mọi chỗ, mọi hành động, lúc nào “ánh sáng tâm” cũng phóng trong đó, gọi là mặt trời tâm luôn mọc.
Như thân ở đâu thì tâm ở ngay chỗ đó. Phải thực tập như vậy thì cơ thiền sẽ đến với mình và có thể khi nó đến ta không ngờ được. Nhưng đa số chúng ta đang sống ở nơi đất khách quê người, thân ở đây mà tâm ở đâu? Phân chia thân một nơi, tâm một nơi. Chính chỗ đó là mất mình, thiếu mình, là sống thiếu chủ.
Còn luôn tập sống xoay trở lại, thân ở chỗ nào thì tâm ở chỗ đó, hiện đang nghe pháp đây thì nó cũng đang nghe pháp đây. Cũng vậy, mình đang lái xe thì nó cũng phải ở chỗ lái xe, chứ còn đang lái xe mà nó về nhà là nguy rồi, có khi lái bậy nữa. Do đó phải tập thiền ngay trong cuộc sống chứ không thể thiếu. Được vậy thì lúc nào nó cũng sáng, mà khi sáng rồi thì nhìn gì cũng sáng hết.
Như câu chuyện một bà già trong pháp hội của ngài Bạch Ẩn. Một hôm, Ngài lên tòa khai thị đại chúng. Ngài giảng: “Hễ tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Đức Phật ở trong mỗi chúng sinh chứ không đâu xa hết. Một khi Đức Phật xuất hiện thì mọi vật trong thế gian đều chiếu ánh quang minh. Ai muốn nhận được điều này thì phải phản quan tự ky”.
Bà già nghe xong thầm nghĩ: Chuyện đó cũng không khó gì lắm và về thực hành. Bà luôn quán chiếu, soi lại chính mình ngay trong cuộc sống hàng ngày. Một hôm, tâm đã miên mật chuyên nhất, khi đang rửa nồi chợt bà ngộ. Bà dẹp cái nồi và đến trình ngài Bạch Ẩn liền. Bà nói: “Con đã gặp Đức Phật ngay trong thân con rồi, mọi vật dụng nó đều sáng ngời hết, thật là kỳ diệu vô cùng”.
Ngài Bạch Ẩn nghe như vậy mới gạn lại xem bà thực có thấy được vậy không, hay do học rồi nói lại, nên Ngài nói: “Bà nói vậy, còn cái hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng hay không?” Bà tiến lên thoi Ngài một cái và nói: “Ông già này chưa ngộ!”.
Hàng ngày cũng là cái biết này nhưng nó không sáng ngời, vì bị những tư tưởng lăng xăng phủ che. Khi nó sáng lên mới thấy rõ là cũng từ cái biết hàng ngày đây nhưng giờ nó lại sáng ngời nên nhìn cái gì cũng sáng hết. Nếu có nhìn hầm phân thì cũng sáng, vì nó không mê. Còn khi nghe nói hầm phân liền cho là thối, vậy là mê.
Như vậy, lúc nào nó cũng sáng ngời hết. Nghĩa là tâm sáng tỏ thực sự rồi thì nhìn ra cái gì cũng sáng, mọi hành động cũng sáng, tức là luôn sống trong ánh sáng thật, nên Phật luôn ra đời với chính mình chứ gì nữa? Nghĩa là Phật đâu có nhập Niết-bàn! Chúng ta thấy Phật nhập Niết-bàn là vì tâm mình mê nên không thấy Phật. Nếu tâm sáng ngời thì Phật hiện tiền, nhìn đâu cũng thấy Phật Rõ ràng thiền là ngay trong cuộc sống, lẽ thật luôn hiện hữu không ở đâu xa.
Ảnh minh họa.
Câu chuyện gần gũi luôn được nhắc nhở là Thiền sư Đạo Ngộ chỉ tâm yếu cho ngài Sùng Tín. Sùng Tín theo hầu Thiền sư Đạo Ngộ lâu mà không được nghe thầy chỉ dạy thiền lý. Một hôm, quá khao khát Sư đến bạch với thầy: “Thưa Thầy, từ ngày con vào đây đến nay, con chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu thiền.”Thiền sư Đạo Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng không lúc nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi”. Sùng Tín ngạc nhiên nói: “Bạch Thầy, vậy Thầy chỉ dạy cho con lúc nào?” Thiền sư Đạo Ngộ trả lời: “Mỗi ngày ngươi dâng trà lên ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm lên ta vì ngươi mà nhận, ngươi xá lui thì ta vì ngươi mà gật đầu, vậy thì có chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi đâu!” Sùng Tín nghe vậy cũng chưa hiểu, cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ. Thiền sư Đạo Ngộ bảo: “Thấy thì thẳng đó thấy liền còn suy nghĩ là sai rồi”. Ngay đó Sư tỉnh ngộ.
Thiền sư Đạo Ngộ khéo léo, vì nếu lúc bình thường nghe nói như vậy chưa chắc là ngài Sùng Tín đã ngộ, vì xem thường. Khi tâm thật thiết tha, khao khát, cõi lòng luôn mở sẵn sàng để đón nhận, chỉ cần khơi nhẹ là “nhận” liền.
Đây cũng vậy, đang khi khao khát, chợt nghe Thiền sư nói một cách bất ngờ là: “Ta không có lúc nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi”. Ngài Sùng Tín ngạc nhiên, rõ ràng mình có được chỉ dạy lúc nào đâu. Nhưng không ngờ là Thầy đã chỉ hàng ngày khi dâng trà, bưng cơm, thưa, xá chào, ngay đó là tâm yếu hiện bày, là lẽ thật nó đang hiện hữu, nhưng đặc biệt “nhận thì ngay đó nhận liền, còn suy nghĩ liền sai”.
Bởi vì suy nghĩ là gián tiếp rồi, suy nghĩ là suy nghĩ về nó tức là biến nó thành đối tượng để suy nghĩ, thành ra mình tách rời với nó, nên hễ suy nghĩ là sai, nhận thì ngay đó nhận liền. Vậy, cho thấy rằng, lẽ thật đó nó luôn hiện hữu sáng ngời trong chính mình, trong mọi cử chỉ hành động đó chứ không đâu xa hết.
Song, cũng do tâm mình phải thật sự sáng thì mới nhận rõ như vậy, chứ còn đem cái tâm lanh lợi, cái tâm sanh diệt suy nghĩ vào trong đây thì nó cũng thành sanh diệt theo. Có người nói, nếu cái biết luôn hiện hữu sáng ngời như vậy, thì khi biết đau, biết khóc, biết buồn, biết vui, nó cũng là cái biết sáng ngời đâu cần tu chi nữa? Tức nhận cái biết sinh diệt làm tâm, là nhận giặc làm con, thật nguy!
Nên chúng ta phải nhơ, các Ngài ở trong cái biết chân thật, cái biết của chân tâm mà nói, nên lúc nào nó cũng sáng, không lầm. Chúng ta cũng phải đem cái biết chân tâm để nhận thì mới tương ứng, còn nếu đem cái biết suy nghĩ mà suy nghĩ về nó thì cũng theo chiều sanh diệt.
Cho nên đối với các Thiền sư khi được hỏi đến chỗ rốt ráo này thì các Ngài nói “không biết”. Vì sao? Là để cắt đứt tâm nghĩ theo duyên của chúng ta đó, tức là tâm lưu lạc nơi xứ người, để nó trở về ngay thực tại đang là. Vậy nói “không biết”, không có nghĩa là không biết, phải không?
Trước kia, ngài Khuê Phong có nói là “Tri chi nhất tự chúng diệu vi môn” tức là “Một chữ biết là cửa các thứ nhiệm mầu”. Nhưng sau các Thiền sư cũng nói lại “Tri tri nhất tự chúng họa chi môn” tức là “Một chữ biết là cửa các thứ họa”. Cùng một chữ biết các vị cho đó là cửa các thứ nhiệm mầu mà cũng là cửa các thứ họa. Cũng từ nó mà có sân si, rồi cũng từ nó mà giác ngộ nên chúng ta phải khéo soi trở lại thì nó là cửa các thứ diệu, nếu không khéo, theo nó mà duyên ra là cửa các thứ họa.