Gần 200 tài liệu, hiện vật bao gồm: Tranh, tượng Phật, vật liệu trang trí kiến trúc chùa tháp, đồ thờ cúng, nhạc khí, bia ký… vừa được Bảo tàng Lịch sử quốc gia giới thiệu trong trưng bày “Di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam” qua các thời kỳ lịch sử.
Quý Phật tử nhấn vào đây để tham quan bảo tàng.
Những hiện vật trưng bày này không chỉ giúp du khách có một cái nhìn khá toàn diện về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam, mà còn cho thấy, đằng sau yếu tố tâm linh còn lấp lánh vẻ đẹp của nghệ thuật, của văn hóa.
Các hiện vật được chia thành 5 thời kỳ lịch sử, gồm: Giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên, thời Lý - Trần, thời Lê sơ - Mạc, thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn và thời Nguyễn. Các hiện vật giúp du khách có những hiểu biết khái quát về nguồn gốc du nhập và lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam, những đóng góp to lớn của Phật giáo vào kho tàng di sản văn hóa dân tộc, những đặc trưng, phong cách nghệ thuật Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Khởi nguyên, Phật giáo được du nhập trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam thông qua giao thương đường biển và phát triển mạnh, tạo đà cho việc hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu - trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Tại đây, Phật giáo đã dung hợp với các vị thần nông nghiệp bản địa, tạo nên một hệ thống tư tưởng giáo lý và thờ cúng mang yếu tố riêng biệt, gắn với sự tích Phật Mẫu Man Nương và tục thờ Tứ Pháp đến nay vẫn còn để lại dấu ấn đậm nét không chỉ ở vùng Luy Lâu - Thuận Thành mà còn ở khắp đồng bằng Bắc bộ.
Tới cuối thế kỷ 10, thời Ngô - Đinh - tiền Lê, khi Phật giáo Đại thừa Bắc truyền đã vào miền Bắc Việt Nam 4 thế kỷ. Khu vực kinh đô Hoa Lư có nhiều ngôi chùa lớn và nổi tiếng như chùa Bà Ngô, chùa Thiên Tôn, chùa Nhất Trụ… Một di sản quý giá của văn hóa Phật giáo thời kỳ này là các cột kinh khắc Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni do Nam Việt Vương Đinh Liễn cho dựng tại Hoa Lư. Những hiện vật như chuông đồng thế kỷ 9 - 10, mô hình tháp thời Đinh - Lê, vật liệu kiến trúc trang trí hình Phật thời Đinh -Lê… cùng các tài liệu đã khái quát được những nét đặc trưng của Phật giáo Việt Nam thời kỳ này.
Với vương quốc Champa cổ đại ở miền Trung, bên cạnh tôn giáo chiếm ưu thế là Shiva giáo thì Phật giáo cũng được truyền vào từ rất sớm. Những hiện vật như đầu tượng Phật Đồng Dương; tượng Phật, tượng Bồ tát văn hóa Chămpa đã cho thấy một giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất của Phật giáo Chămpa là vào thế kỷ 9 - 10 dưới triều Indravarman II, khi Phật viện Đồng Dương được hình thành. Trong khi đó, những hiện vật là tượng Phật bằng gỗ, bằng đá khá lớn và độc đáo của thời kỳ văn hoá Óc Eo ở miền Nam lại mang đến những hiểu biết về giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật Phật giáo ở đây từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 7.
Thời Lý - Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được triều đình coi là quốc giáo. Ngoài các phái thiền được du nhập từ trước, một dòng thiền Việt Nam là thiền phái Trúc Lâm được sáng lập do vị vua anh minh Trần Nhân Tông. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm mang ý nghĩa rất lớn về tính độc lập tự chủ của dân tộc. Thời kỳ này, chùa chiền mọc lên ở khắp nơi, trong đó có nhiều ngôi quốc tự được xây dựng như chùa Báo Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích, chùa Thầy, chùa Long Đọi, chùa Bối Khê, chùa Phổ Minh. Di sản văn hóa Phật giáo giai đoạn này vừa mang đậm bản sắc Việt vừa biểu hiện sự tiếp thu những yếu tố văn hóa ngoại sinh, đặc biệt là văn hóa Chămpa mà biểu hiện rõ nhất là trong nghệ thuật tạo hình, điêu khắc với các hình tượng Apsara, Garuda, Kinnari, Kim Cương, nhạc công…
Thời Lê sơ, nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và là nền tảng để xây dựng mọi thể chế chính trị và xã hội, nên dấu tích mỹ thuật Phật giáo thời Lê Sơ hiện tồn rất ít, trong đó đáng chú ý là tháp Huệ Quang, bệ tượng vua Lý Thần Tông chùa Thầy… Đến thời nhà Mạc, Phật giáo bắt đầu có những dấu hiệu phục hưng. Hàng trăm công trình chùa tháp được tu sửa và làm mới thời kỳ này như chùa Nhân Trai, Trà Phương (Hải Phòng), chùa Đào Xuyên, Bối Khê (Hà Nội). Phần trưng bày này có các hiện vật với tượng Phật đồng thời Lê sơ, chân đèn, lư hương do nghệ nhân Đặng Huyền Thông chế tác, chân đèn gốm hoa lam niên hiệu Hưng Trị 2 do Đỗ Xuân Vi chế tác, tượng Quan Âm chuẩn đề thời Mạc, gạch chùa Sổ in nổi hình người phụ nữ mang bầu... cùng các tài liệu đã khái quát nên di sản văn hóa Phật giáo ở Việt Nam trong giai đoạn này.
Thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn, nhiều ngôi chùa được trùng tu hoặc dựng mới, như chùa Keo (Thái Bình), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Mía, chùa Kim Liên, chùa Tây Phương, chùa Bộc (Hà Nội)… Di sản văn hóa Phật giáo thời kỳ này còn để lại nhiều kiệt tác điêu khắc như tượng Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp, chùa Mễ Sở; tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian; hệ thống tượng ở chùa Tây Phương … Ở phần trưng bày giai đoạn này, du khách được chiêm ngưỡng tượng Phật nhập niết bàn, tượng Thích Ca Mâu Ni, tượng Bồ Đề Đạt Ma gỗ sơn thếp, tượng Kim Cương chất liệu gốm, chân đèn, lư hương gốm men rạn, lư hương khắc minh văn, chuông đồng… và đặc biệt là trống đồng Cảnh Thịnh, một trong những hiện vật đẹp nhất và tiêu biểu nhất của thời đại vừa được Nhà nước đưa vào danh mục bảo vật quốc gia. Trống Cảnh Thịnh có kiểu dáng khác lạ. Mặt trống cong vồng lên hình chỏm cầu, chính giữa có hai vòng tròn kép. Thân trống nở nhẹ ở giữa và được chia làm ba phần, ngăn cách bằng hai đường gân nổi. Thân trống có 4 quai hình khuyên gắn cách đều trên thân. Xung quanh trống có đúc nổi các hoa văn vô cùng độc đáo như nhũ đinh, lá đề, hồi văn chữ T, bộ tứ linh long, ly, quy, phượng. Đặc biệt, trên trống còn khắc bài minh văn dài 272 chữ, giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc, xuất xứ của trống, ngày, tháng, năm đúc và lý do, mục đích của việc đúc trống…
Thời nhà Nguyễn, một khối lượng di sản văn hóa Phật giáo đồ sộ được để lại. Hàng ngàn ngôi chùa làng từ Bắc chí Nam được trùng tu, đúc chuông, tô tượng; hàng loạt bộ kinh Phật được in khắc… Phần trưng bày này giới thiệu các hiện vật như tượng Phật Tam Thế, tượng Phật A Di Đà, tượng Thích Ca Mâu Ni, tượng Quan Âm tống tử, tượng Hộ Pháp, Kim Cương… chất liệu gốm, gỗ, đồng, sắt, bộ tranh giấy Thập Điện Diêm Vương; tranh gỗ Bồ Đề Đạt Ma, tranh gỗ Đức Phật, đồ thờ cúng, hoành phi, câu đối, ván in kinh… cùng các tài liệu khoa học giúp người xem những hiểu biết khái quát về Phật giáo ở Việt Nam giai đoạn này.
Giáo sư Trần Lâm Biền đánh giá, trưng bày đã cho chúng ta thấy, đằng sau lĩnh lực tâm linh, còn là vẻ đẹp của nghệ thuật, của văn hóa ở trong các di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam. Những hình tượng này đã giúp chúng ta nhìn thấy được bản sắc dân tộc, về một nền văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa ấy có sự đối sánh với văn hóa Chămpa, Chân Lạp… qua đó, thấy được nghệ thuật của Việt Nam có tính chất hướng nội. Và sự hướng nội ấy đã nói lên tinh thần của người Việt Nam là đầm ấm, đoàn kết, thương yêu…
Phương Lan